LƯƠNG Y HƯỚNG DẪN LÀM Gối thuốc dưỡng não, an thần, ổn định huyết áp
Trong mỗi gia đình Việt, rất dễ dàng tìm thấy những thảo dược quanh nhà. Chỉ cần phơi khô các loại thảo dược làm.
Phòng và hỗ trợ điều trị nhiều bệnh
Y học cổ truyền gọi phương pháp lựa chọn và sử dụng các dược vật làm ruột gối để gối đầu nhằm mục đích phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe là dược chẩm (gối thuốc). Theo y học cổ truyền, đầu là nơi hội tụ của các kinh dương, có nhiều huyệt vị quan trọng liên quan đến tuần hoàn của khí huyết và công năng hoạt động của các tạng phủ. Các dược liệu trong gối sẽ cọ xát, tác động lên da và huyệt vị vùng đầu mặt cổ, thẩm thấu vào trong cơ thể mà phát huy tác dụng.
Tùy theo dược tính của các dược liệu trong gối mà có công dụng khác nhau như sơ phong thanh nhiệt, thanh nhiệt giải độc, an thần định trí, kiện não minh mục, thông lạc chỉ thống… Từ đó, các loại gối với công thức thuốc khác nhau dùng phòng và hỗ trợ điều trị nhiều bệnh như đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mất ngủ, hay quên, cao huyết áp, suy nhược thần kinh, đau cổ gáy…
Để có tác dụng dưỡng não, an thần, ổn định huyết áp, y học cổ truyền thường sử dụng các vị thuốc thuộc nhóm bình can, tức phong, an thần, khai khiếu. Tùy từng chứng trạng cụ thể mà phối hợp các vị với nhau.
Các vị bình can, tức phong trị các chứng nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, hỏa bốc do can dương vượng, âm hư không nuôi dưỡng được can âm sinh ra, hay gặp trong bệnh cao huyết áp, suy nhược thần kinh, rối loạn tiền mãn kinh… có thể dùng các vị: tằm sa, cúc hoa, tang diệp…
Các vị an thần là những thuốc có tác dụng dưỡng tâm, an thần, bình can, tiềm dương như: táo nhân, vông nem, liên diệp, thảo quyết minh… Các vị an thần dùng trong trường hợp âm hư, huyết hư, tỳ hư không nuôi dưỡng được tâm, nên tâm không tàng thần, hoặc âm hư không nuôi dưỡng được can âm, can dương vượng lên, khiến thần trí không ổn định.
Các vị phương hương khai khiếu có tác dụng tĩnh thần có mùi thơm, vị cay tác dụng phát tán, trừ đờm, làm thông các giác quan, khai các khiếu trên cơ thể. Thuốc tác dụng theo các cơ chế trừ đờm thanh phế để khai thông hô hấp, đồng thời trấn tâm (điều hòa nhịp tim) để khôi phục tuần hoàn khí huyết. Các thuốc phương hương khai khiếu thường sử dụng: xương bồ, băng phiến, xạ hương, an tức hương… thích hợp với những bệnh tim loạn nhịp, mất ngủ, cuồng phiền, bệnh thường do chức năng thần kinh, chức năng tạng tâm mất thăng bằng, các bệnh tăng huyết áp, khó ngủ, hay lo lắng.
Công thức làm gối thuốc
Để làm gối thuốc cần chọn các loại vải bông, vải sợi để làm vỏ ruột gối để đạt độ mềm mại, thông thoáng và dễ hấp thụ chất thuốc. Tùy từng chứng bệnh cần trị liệu mà lựa chọn hoa, lá, hạt, vỏ… của các thảo dược cho phù hợp. Những vị thuốc hay được dùng là cúc hoa, hồng hoa, hoa cúc trắng, hoa cúc dại (dã cúc hoa), bạc hà, hạ khô thảo, bồ công anh, đạm trúc diệp, lá dâu, thảo quyết minh, mạn kinh tử, lá trà, vỏ đậu xanh, vỏ đậu đen, đương quy, xuyên khung, xích thược, mộc hương, bạch thược, đan bì, khương hoạt, xương bồ, đan sâm, tế tân, quế chi, từ thạch, phèn chua, thạch cao, thạch quyết minh, băng phiến, tằm sa, địa long… Tất cả đều được phơi hoặc sấy thật khô, tán vụn rồi cho vào vỏ ruột gối khâu kín lại để tránh ẩm mốc.
Mất ngủ: cúc hoa 1000g, xuyên khung 400g, đan bì 200g, bạch chỉ 200g. Tất cả sấy khô, tán nhỏ, nhồi làm ruột gối.
Sáng mắt: vỏ khổ kiều, vỏ đậu xanh, vỏ đậu đen, quyết minh tử, hoa cúc lượng bằng nhau nhồi làm gối.
Sơ phong thanh nhiệt, bình can tiềm dương, chủ trị cao huyết áp: cúc hoa, đạm trúc diệp, tang diệp, sinh thạch cao, bạch thược, xuyên khung, từ thạch, mạn kinh tử, mộc hương, tằm sa, bạc hà, lượng vừa đủ nhồi vào trong vỏ ruột gối, mỗi ngày gối đầu khoảng 6 giờ, sử dụng một liệu trình 3 tháng.
Hoạt huyết an thần, ổn định huyết áp: thạch quyết minh, hoa cúc trắng, hồng hoa, lượng vừa đủ, sấy khô tán vụn nhồi làm ruột gối. Cũng có thể dùng lá chè xanh, lá dâu, kinh giới… Hoặc để thanh nhiệt bình can, dưỡng âm, ổn định huyết áp: sinh thạch cao, từ thạch, cúc hoa, mộc hương, bạch thược, lá sương, lượng vừa đủ, sấy khô tán vụn nhồi làm ruột gối.
Định thần, giảm căng thẳng, ngủ ngon, sảng khoái, ổn định tâm trạng: thương truật, ngô thù du, lá ngải cứu, nhục quế, sa nhân, bạch chỉ, bạc hà, mộc lan, viễn chí. Lượng bằng nhau, tán thô nhồi làm gối.
Để bảo quản được lâu, nên thường xuyên phơi gối nơi thoáng mát, có gió, ánh nắng nhẹ để làm khô mồ hôi và hơi ẩm, tránh ẩm mốc, ruột gối phải còn mùi thơm của thảo dược. Nên thay gối sau 3 – 4 tháng sử dụng. Những ngày trời mưa ẩm nên dùng máy sấy sấy nhẹ. Cần chú ý giữ gối khô thoáng và thay gối kịp thời khi hết liệu trình để tránh hiện tượng ngứa ngáy, khó chịu, kích thích đường hô hấp do thuốc bị biến chất. Không sử dụng nếu mùi hương của thảo dược trong gối gây kích ứng. Có thể làm ấm nhẹ túi thuốc bằng lò vi sóng. Trước khi sử dụng nên vỗ đều cho gối xốp mềm.
Y học cổ truyền gọi phương pháp lựa chọn và sử dụng các dược vật làm ruột gối để gối đầu nhằm mục đích phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe là dược chẩm (gối thuốc). Theo y học cổ truyền, đầu là nơi hội tụ của các kinh dương, có nhiều huyệt vị quan trọng liên quan đến tuần hoàn của khí huyết và công năng hoạt động của các tạng phủ. Các dược liệu trong gối sẽ cọ xát, tác động lên da và huyệt vị vùng đầu mặt cổ, thẩm thấu vào trong cơ thể mà phát huy tác dụng.
Tùy theo dược tính của các dược liệu trong gối mà có công dụng khác nhau như sơ phong thanh nhiệt, thanh nhiệt giải độc, an thần định trí, kiện não minh mục, thông lạc chỉ thống… Từ đó, các loại gối với công thức thuốc khác nhau dùng phòng và hỗ trợ điều trị nhiều bệnh như đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mất ngủ, hay quên, cao huyết áp, suy nhược thần kinh, đau cổ gáy…
Để có tác dụng dưỡng não, an thần, ổn định huyết áp, y học cổ truyền thường sử dụng các vị thuốc thuộc nhóm bình can, tức phong, an thần, khai khiếu. Tùy từng chứng trạng cụ thể mà phối hợp các vị với nhau.
Các vị bình can, tức phong trị các chứng nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, hỏa bốc do can dương vượng, âm hư không nuôi dưỡng được can âm sinh ra, hay gặp trong bệnh cao huyết áp, suy nhược thần kinh, rối loạn tiền mãn kinh… có thể dùng các vị: tằm sa, cúc hoa, tang diệp…
Các vị an thần là những thuốc có tác dụng dưỡng tâm, an thần, bình can, tiềm dương như: táo nhân, vông nem, liên diệp, thảo quyết minh… Các vị an thần dùng trong trường hợp âm hư, huyết hư, tỳ hư không nuôi dưỡng được tâm, nên tâm không tàng thần, hoặc âm hư không nuôi dưỡng được can âm, can dương vượng lên, khiến thần trí không ổn định.
Các vị phương hương khai khiếu có tác dụng tĩnh thần có mùi thơm, vị cay tác dụng phát tán, trừ đờm, làm thông các giác quan, khai các khiếu trên cơ thể. Thuốc tác dụng theo các cơ chế trừ đờm thanh phế để khai thông hô hấp, đồng thời trấn tâm (điều hòa nhịp tim) để khôi phục tuần hoàn khí huyết. Các thuốc phương hương khai khiếu thường sử dụng: xương bồ, băng phiến, xạ hương, an tức hương… thích hợp với những bệnh tim loạn nhịp, mất ngủ, cuồng phiền, bệnh thường do chức năng thần kinh, chức năng tạng tâm mất thăng bằng, các bệnh tăng huyết áp, khó ngủ, hay lo lắng.
Công thức làm gối thuốc
Để làm gối thuốc cần chọn các loại vải bông, vải sợi để làm vỏ ruột gối để đạt độ mềm mại, thông thoáng và dễ hấp thụ chất thuốc. Tùy từng chứng bệnh cần trị liệu mà lựa chọn hoa, lá, hạt, vỏ… của các thảo dược cho phù hợp. Những vị thuốc hay được dùng là cúc hoa, hồng hoa, hoa cúc trắng, hoa cúc dại (dã cúc hoa), bạc hà, hạ khô thảo, bồ công anh, đạm trúc diệp, lá dâu, thảo quyết minh, mạn kinh tử, lá trà, vỏ đậu xanh, vỏ đậu đen, đương quy, xuyên khung, xích thược, mộc hương, bạch thược, đan bì, khương hoạt, xương bồ, đan sâm, tế tân, quế chi, từ thạch, phèn chua, thạch cao, thạch quyết minh, băng phiến, tằm sa, địa long… Tất cả đều được phơi hoặc sấy thật khô, tán vụn rồi cho vào vỏ ruột gối khâu kín lại để tránh ẩm mốc.
Mất ngủ: cúc hoa 1000g, xuyên khung 400g, đan bì 200g, bạch chỉ 200g. Tất cả sấy khô, tán nhỏ, nhồi làm ruột gối.
Sáng mắt: vỏ khổ kiều, vỏ đậu xanh, vỏ đậu đen, quyết minh tử, hoa cúc lượng bằng nhau nhồi làm gối.
Sơ phong thanh nhiệt, bình can tiềm dương, chủ trị cao huyết áp: cúc hoa, đạm trúc diệp, tang diệp, sinh thạch cao, bạch thược, xuyên khung, từ thạch, mạn kinh tử, mộc hương, tằm sa, bạc hà, lượng vừa đủ nhồi vào trong vỏ ruột gối, mỗi ngày gối đầu khoảng 6 giờ, sử dụng một liệu trình 3 tháng.
Hoạt huyết an thần, ổn định huyết áp: thạch quyết minh, hoa cúc trắng, hồng hoa, lượng vừa đủ, sấy khô tán vụn nhồi làm ruột gối. Cũng có thể dùng lá chè xanh, lá dâu, kinh giới… Hoặc để thanh nhiệt bình can, dưỡng âm, ổn định huyết áp: sinh thạch cao, từ thạch, cúc hoa, mộc hương, bạch thược, lá sương, lượng vừa đủ, sấy khô tán vụn nhồi làm ruột gối.
Định thần, giảm căng thẳng, ngủ ngon, sảng khoái, ổn định tâm trạng: thương truật, ngô thù du, lá ngải cứu, nhục quế, sa nhân, bạch chỉ, bạc hà, mộc lan, viễn chí. Lượng bằng nhau, tán thô nhồi làm gối.
Để bảo quản được lâu, nên thường xuyên phơi gối nơi thoáng mát, có gió, ánh nắng nhẹ để làm khô mồ hôi và hơi ẩm, tránh ẩm mốc, ruột gối phải còn mùi thơm của thảo dược. Nên thay gối sau 3 – 4 tháng sử dụng. Những ngày trời mưa ẩm nên dùng máy sấy sấy nhẹ. Cần chú ý giữ gối khô thoáng và thay gối kịp thời khi hết liệu trình để tránh hiện tượng ngứa ngáy, khó chịu, kích thích đường hô hấp do thuốc bị biến chất. Không sử dụng nếu mùi hương của thảo dược trong gối gây kích ứng. Có thể làm ấm nhẹ túi thuốc bằng lò vi sóng. Trước khi sử dụng nên vỗ đều cho gối xốp mềm.
Lương y Nguyễn Yến (Hội Đông y Hà Nội)
Không có nhận xét nào: